Kỷ nguyên của Waters Pink_Floyd

Vào tháng 7 năm 1978, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, Waters đưa ra cho nhóm 2 ý tưởng mới về album tiếp theo. Đầu tiên là bản demo dài 90 phút, Bricks in the Wall, và phần còn lại là solo của Waters, The Pros and Cons of Hitch Hiking. Ban đầu Mason và Gilmour khá thật trọng, đã chọn những người cũ để làm album mới. Bob Ezrin hợp tác sản xuất, và ông này đã viết kịch bản dài 40 trang cho album mới. Ezrim dựa trên câu tuyện về nhân vật trung tâm của Pink. Bắt đầu bằng cảm hứng từ những kỷ niệm thời thơ ấu của Water, đáng chú ý nhất là về cái chết của bố Waters trong chiến tranh thế giới thứ II. Sau viên gạch đầu tiên này, The Wall dần được xây lên. Pink trở nên nghiện ngập, chán ngán ngành công nghiệp âm nhạc, cuối cùng chuyển vào thế giới hoang tưởng. Đây là ý tưởng lấy từ Syd Barrett. Đến cuối album, khán giả sẽ cảm thấy như Pink đạp đổ được bức tường này, trở về con người bình thường, biết quan tâm chăm sóc.

Trong quá trình ghi âm, Waters, Gilmour và Mason đều tỏ ra không hài long với việc Wright không đóng góp gì cho album. Gilmour nói rằng Wright "chẳng đóng bất cứ thứ gì có giá trị cho album – anh ta làm việc rất rất ít" và rằng đó là lý do tại sao anh ta "bị đá đít". Theo Mason, "Việc mà Rick làm là đến và ngồi lì trong quá trình thu âm, chẳng làm gì cả, cứ như là "nhà sản xuất" ấy". Waters nhận xét: "Wright chẳng chuẩn bị gì cho việc thu âm… đây là sự đồng thuận từ mọi người… hoàn thành album, anh ta vẫn được chia phần… nhưng sau đó, anh ta phải rời đi. Rick cũng đồng ý."

Mặc dù Pink Floyd không phát hành single nào kể từ "Money" năm 1973, "Another Brick in the Wall (Part II)" trong album, giữ vị trí đầu ở cả Mỹ và Anh. Phát hành vào 30 tháng 11 năm 1979, The Wall đứng đầu bảng xếp hạng Billboard của Mỹ trong suốt 15 tuần, đứng vị trí thứ 3 ở Anh. The Wall cũng đứng thứ 3 trong Top 100 album mọi thời đại theo đánh giá của RIAA với 23 triệu bản bán ra tại Mỹ. Bìa đĩa cũng là thiết kế đơn giản nhất, với một bức tường trắng, không có tên album hay tên nhóm. Đó cũng là bìa album đầu tiên kể từ The Piper at the Gates of Dawn không phải là thiết kế của Hipgnosis.

Gerald Scarfe sản xuất hàng loạt các hình động chiếu trong show diễn quảng bá album. Ông cũng có nhiệm vụ tạo ra những con rối bơm hơi lớn đại diện cho các nhân vật trong album gồm "Mẹ", "Vợ cũ" và "Thầy giáo". Pink Floyd sử dụng những con rối này trong suốt tour diễn. Quan hệ giữa các thành viên trong nhóm luôn tệ hại. Bốn chiếc xe lưu động của họ đỗ thành vòng tròn, cửa hướng ra ngoài. Water dùng xe tải riêng để tới điểm diễn và ở khách sạn so với các thành viên. Wright trở thành người viết nhạc được trả lương và là người duy nhất thu được lợi nhuận trong khi mọi người bị lỗ 600.000$.

Có hẳn 1 bộ phim được ra đời dựa trên ý tưởng về The Wall. Ban đầu dự định là sự kết hợp giữa những cảnh quay thực tế trong các buổi biểu diễn và những nhân vật hoạt hình. Tuy nhiên những cảnh quay về buổi diễn không thực tế lắm. Alan Parker đồng ý làm đạo diễn của phim và dùng một cách tiếp cận khác. Cảnh về những con hoạt hình vẫn dùng, nhưng sẽ được diễn bởi những diễn viên kịch câm chuyên nghiệp. Waters diễn thử nhưng không đạt và nhóm đề nghị Bob Geldof thủ vai Pink. Ban đầu Geldof từ chối, lên án cốt truyện của phim như là "một thứ nhảm nhí". Cuối cùng, bị thuyết phục bởi triển vọng thành công của bộ phim và một khoản thù lao lớn, Geldof đồng ý diễn. Bộ phim được trình chiếu ở Liên hoan phim Cannes vào tháng 5 năm 1982. Pink Floyd – The Wall ra mắt ở Anh vào tháng 7 năm 1982.

The Final Cut

Năm 1982, Waters gợi ý một dự án âm nhạc mới, với tiêu đề Spare Bricks, hình thành từ những bản nhạc trong phim Pink Floyd The Wall. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Falklands War đã làm Waters thay đổi và bắt đầu viết một vài giai điệu theo hướng khác. Waters coi động thái của Margaret Thatcher với cuộc chiến này là hiếu chiến và không cần thiết, và anh quyết định dành riêng album này cho người cha quá cố của mình. Lập tức nổ ra những cuộc tranh cãi giữa Waters và Gilmour, người cho rằng album mới phải hoàn toàn mới thay vì nhai lại những giai điệu cũ của The Wall. Waters thì cho rằng Gilmour đóng góp rất ít cho ban nhạc. Michael Kamen, người dàn dựng âm nhạc, ở trung gian giữa hai người, đồng thời thay thế vị trí khuyết của Wrights. Sự căng thẳng ngày một sâu sắc. Waters và Gimour làm việc độc lập, tuy nhien, Gilmour cũng bắt đầu bị căng thẳng. Sau một cuộc cãi vã, tên của Gilmour bị gạch khỏi danh sách do Waters cảm thấy anh này không đóng góp gì cho việc sáng tác.